Sáng kiến kinh nghiệm Biện pháp rèn kỹ năng Tập đọc nhạc cho học sinh Lớp 8
Bạn đang xem 30 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Biện pháp rèn kỹ năng Tập đọc nhạc cho học sinh Lớp 8", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
sang_kien_kinh_nghiem_bien_phap_ren_ky_nang_tap_doc_nhac_cho.pdf
Nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Biện pháp rèn kỹ năng Tập đọc nhạc cho học sinh Lớp 8
- PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HUYỆN VỤ BẢN TRƯỜNG THCS XÃ LIÊN BẢO BÁO CÁO SÁNG KIẾN BIỆN PHÁP RÈN KỸ NĂNG TẬP ĐỌC NHẠC CHO HỌC SINH LỚP 8 Âm nhạc (09)/THCS Tác giả: Trần Thị Giang Trình độ chuyên môn: Đại học Sư phạm Âm nhạc Chức vụ: Giáo viên Nơi công tác: Trường THCS xã Liên Bảo Vụ Bản, ngày 19 tháng 4 năm 2023
- THÔNG TIN CHUNG VỀ SÁNG KIẾN 1. Tên sáng kiến: “Biện pháp rèn kỹ năng tập đọc nhạc cho học sinh lớp 8” 2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Âm nhạc (09)/THCS 3. Thời gian áp dụng sáng kiến: Từ tháng 9 năm 2021 đến tháng 5 năm 2022 Và Từ tháng 9 năm 2022 đến tháng 4 năm 2023 4. Tác giả: Họ và tên: Trần Thị Giang Năm sinh: 1981 Nơi thường trú: 10/1/148 đường Kênh - P. Lộc Vượng – tp. Nam Định Trình độ chuyên môn: Đại học Sư phạm Âm nhạc Chức vụ công tác: Giáo viên Nơi làm việc: THCS xã Liên Bảo Điện thoại: 0845828983 Tỷ lệ đóng góp tạo ra sáng kiến: 100 % 5. Đơn vị áp dụng sáng kiến: Tên đơn vị: Trường THCS xã Liên Bảo Địa chỉ: Liên Bảo – Vụ Bản – Nam Định Điện thoại: 02283820542
- BÁO CÁO SÁNG KIẾN I. ĐIỀU KIỆN HOÀN CẢNH TẠO RA SÁNG KIẾN Âm nhạc là một loại hình nghệ thuật phản ánh hiện thực khách quan thông qua sự biểu cảm của âm thanh. Ở nhà trường trung học cơ sở (THCS) mục tiêu của việc học âm nhạc là thông qua việc giảng dạy một số vấn đề cơ bản về nghệ thuật âm nhạc để hình thành và phát triển năng lực cảm thụ âm nhạc của học sinh, tạo một sự nhận thức về âm nhạc ở một mức độ nhất định, từ đó góp phần đào tạo có chất lượng những lớp người phát triển một cách toàn diện cả về “Đức - Trí - Thể - Mĩ” trở thành những công dân có ích cho xã hội. Từ mục tiêu của môn học, chúng ta hiểu rằng: học âm nhạc ở trường THCS không nhằm mục đích đào tạo ra những con người làm nghề chuyên về âm nhạc đó là trở thành những diễn viên, những ca sĩ, nhạc sĩ mà mục đích chính là thông qua việc dạy môn học này để tác động vào đời sống tinh thần của các em, nhằm thực hiện nhiệm vụ giáo dục đạo đức, giáo dục thẩm mĩ cho học sinh. Muốn làm được điều đó nhất thiết các em phải được tiếp cận với âm nhạc đích thực, bản thân các em phải là người trực tiếp tham gia các hoạt động âm nhạc. Việc dạy âm nhạc sẽ trang bị cho các em những kiến thức kĩ năng giúp khơi dậy sự say mê sáng tạo trong hoạt động âm nhạc, làm cho đời sống tinh thần của các em thêm phong phú, tạo điều kiện để các em hứng thú với các môn học khác cũng như hứng thú tham gia vào các hoạt động ngoại khóa của nhà trường cũng như của địa phương. Giáo dục thẩm mỹ cho con người là không thể thiếu được trong mục đích giáo dục hiện nay của chúng ta đó là đào tạo nên những con người phát triển một cách toàn diện. Việc giáo dục một con người toàn diện không chỉ giáo dục cho họ có một đạo đức tốt, có trình độ hiểu biết cao, nắm chắc các kiến thức khoa học và xã hội, có sức khoẻ, biết lao động mà còn phải giáo dục cho họ biết nhìn nhận, phân biệt, biết thưởng thức và biết làm đẹp cho cuộc sống. Một trong những con đường giáo dục nhanh và hiệu quả nhất là giáo dục thông qua việc giảng dạy các môn học nghệ thuật trong đó có bộ môn Âm nhạc. Âm nhạc là phương tiện hiệu quả nhất trong giáo dục thẩm mỹ, đặc biệt là ở bậc Trung học cơ sở (THCS), thông qua môn học này đã hình thành cho các em những kiến
- 2 thức ban đầu về ca hát, kiến thức về Âm nhạc, đặc biệt là trang bị cho các em có một thế giới tinh thần thoải mái hơn, giúp các em phát triển toàn diện hơn, từ đó giúp các em học tốt các môn học khác. II. MÔ TẢ GIẢI PHÁP 1. Mô tả giải pháp trước khi tạo ra sáng kiến 1.1.Về mặt thực tiễn: Những năm trước đây, việc đầu tư trang thiết bị cho môn học còn hạn chế. Do đó việc truyền đạt và giúp các em tiếp thu kiến thức Âm nhạc là hết sức khó khăn, thậm chí những kiến thức đó đến với các em hết sức trừu tượng. Việc truyền thụ các kiến thức âm nhạc chỉ qua phương pháp truyền khẩu thuần tuý, ít phát triển khả năng tư duy của các em. Vì vậy không tạo được sự thu hút, ít gây hứng thú học tập cho các em. Dựa vào cơ sở lý luận đã có, cùng với thời gian giảng dạy tại trường, tôi đã tìm hiểu khả năng học nhạc của học sinh. Bằng việc quan sát thực tế các giờ học tôi nhận thấy việc tiếp thu các kiến thức Âm nhạc và sự yêu thích học tập bộ môn chỉ rơi vào một số em gọi là có năng khiếu. Còn lại các em khác chỉ học theo bản năng phải học nên ít có sự sáng tạo trong vận dụng kiến thức. Qua kiểm tra đọc một bài tập đọc nhạc thì số lượng các em đọc tốt còn rất khiêm tốn. Thực tế khi nghe các em thực hiện bài tập, bên cạnh một số em trình bày tự nhiên và thoải mái vẫn còn nhiều em chưa thực sự mạnh dạn, tự tin, chỉ đọc với tính chất thuộc lòng, đọc nhạc thì chỉ đúng tên nốt mà chưa đúng trường độ, ngắt, nghỉ tuỳ tiện không đúng tiết tấu của bài nhạc. 1.2. Về tính cấp thiết: Xuất phát từ thực trạng giảng dạy Âm nhạc cho học sinh ở lứa tuổi THCS. Vấn đề học và kết quả học tập của các em là hết sức quan trọng, điều đó không chỉ phụ thuộc vào chương trình giảng dạy phù hợp mà còn phụ thuộc vào phương pháp truyền thụ của người thầy. Hơn nữa còn phụ thuộc vào ý thức học tập của các em cùng với sự quan tâm chăm sóc, tạo điều kiện của gia đình và toàn thể xã hội. Trong các phân môn của môn học Âm nhạc (Học hát, Nhạc lý – Tập đọc nhạc, Âm nhạc thường thức) thì phân môn Tập đọc nhạc (TĐN) là
- 3 phân môn tổng hợp các kiến thức của âm nhạc. Vậy làm thế nào để có thể rèn luyện cho các em học sinh có thể đọc nhạc tốt? Bản thân là giáo giảng dạy bộ môn Âm nhạc, tôi nhận thấy đại đa số các em rất thích ca hát nhưng lại ngán ngại TĐN. Những năm trước đây việc giảng dạy bộ môn này đều giao cho giáo viên văn hóa giảng dạy, không có giáo viên chuyên ngành. Bên cạnh đó là đồ dùng dạy học còn thiếu dường như là không có, đặc biệt là nhạc cụ, cùng với những phương pháp giảng dạy cũ: chủ yếu là dạy hát và dạy đọc nhạc theo phương pháp truyền miệng, do đó kết quả đạt được chưa cao, ít gây hứng thú cho các em trong việc học tập và tiếp thu kiến thức của bộ môn. Từ thực tế đó, sau một thời gian công tác, thực tế giảng dạy, dựa trên cơ sở những lý do mang tính cấp thiết, tôi xin mạnh dạn trình bày một số phương pháp “Biện pháp rèn luyện kỹ năng tập đọc nhạc cho học sinh lớp 8” mà tôi đã vận dụng trong năm học 2021 - 2022 và 2022 - 2023 dành cho học sinh khối lớp 8 trường THCS Liên Bảo, có hiệu quả trong hoạt động giảng dạy phân môn TĐN. Hi vọng rằng đây sẽ là những ý kiến bổ ích để cho các đồng nghiệp có thể tham khảo trong hoạt động giảng dạy của mình. 1.3.Mục đích nghiên cứu 1.3.1. Đối với giáo viên: - Nắm bắt được được khả năng tiếp thu của học sinh khi áp dụng phương pháp mới vào giảng dạy. - Phân tích được các ưu - nhược điểm trong các tiết dạy. - Đề xuất các biện pháp tích cực để nâng cao chất lượng giảng dạy bộ môn âm nhạc đặc biệt là việc học phân môn TĐN trong nhà trường THCS. - Giúp giáo viên dạy tốt phân môn TĐN. 1.3.2. Đối với học sinh: - Rèn học sinh kỹ năng học thuộc giai điệu, hát đúng cao độ, trường độ, sắc thái, biết ghép lời ca chính xác cho bài TĐN. - Giúp học sinh tự tin trình bày một cách chủ động, sáng tạo trong bất kì bài TĐN nào. 1.4. Đối tượng nghiên cứu
- 4 Các phương pháp rèn kỹ năng tập đọc nhạc cho học sinh lớp 8. 1.5. Đối tượng khảo sát thực nghiệm Học sinh khối 8 trường THCS Liên Bảo 1.6. Phương pháp nghiên cứu - Nhóm phương pháp lý luận: phân tích và tổng hợp lí thuyết, phân loại hệ thống lý thuyết, đọc nghiên cứu SGK, tài liệu tham khảo. - Nhóm phương pháp thực tiễn: + Phương pháp trình bày một bài tập đọc nhạc. + Phương pháp thực hành, luyện tập. + Phương pháp dùng lời (còn gọi là thuyết trình, diễn giảng). + Phương pháp trực quan (là việc sử dụng các phương tiện dạy học như nhạc cụ, băng đĩa nhạc, tranh ảnh .trong giờ lên lớp khiến cho những khái niệm trừu tượng trở nên rõ ràng cụ thể + Phương pháp kiểm tra - đánh giá. - Trong các phương pháp dạy học (PPDH), không có PPDH nào là vạn năng, do đó người giáo viên phải khéo léo phối kết hợp các PPDH trong giảng dạy để phát huy tính tích cực của học sinh trong học tập. Để việc phối hợp các phương pháp trong giờ dạy để đạt hiệu quả thì giáo viên cần lưu ý một số điều sau: + Phương pháp phải tương ứng với nội dung. + Phải nắm vững nội dung của bài (Nếu cần có thể bổ sung vào SGK những tư liệu cần thiết nhằm làm phong phú cho bài học - tránh lan man, quá tải, thiếu trọng tâm). 1.7. Phạm vi nghiên cứu, kế hoạch nghiên cứu 1.7.1. Phạm vi nghiên cứu: Phân môn TĐN dành cho học sinh lớp 8A, 8B, 8C trường THCS Liên Bảo. 1.7.2. Kế hoạch nghiên cứu Áp dụng trong năm học 2021 - 2022 và 2022 - 2023, bắt đầu từ tháng 09/2021 đến tháng 05/2022 và tháng 09/2022 đến tháng 04/2023.
- 5 2. Mô tả giải pháp sau khi có sáng kiến 2.1. Cơ sở lí luận 2.1.1.Tổng quan về phân môn Tập đọc nhạc(TĐN) : Nhiều người cho rằng, ở nhà trường phổ thông học sinh chỉ có thể tập hát mà không thể đọc được nhạc. Theo họ chỉ những em có năng khiếu mới thực hiện được yêu cầu này. Điều đó không đúng! Đối với phân môn TĐN giáo viên cần cho học sinh biết rằng TĐN không phải như “ tập đọc chữ ”, TĐN sẽ không đọc như nói mà đọc như hát. TĐN chính là cho các em làm quen với chữ nhạc. Thực chất của chữ nhạc là một hệ thống các kí hiệu đơn giản dùng để mã hoá các yếu tố của âm nhạc và cách trình diễn của tiếng hát và tiếng đàn. Còn đọc nhạc chỉ là sự giải mã các kí hiệu đó để tái hiện lại tiếng đàn và tiếng hát. Đọc được nhạc, học sinh sẽ càng yêu thích âm nhạc, càng say sưa ca hát. Dạy TĐN cho học sinh lớp 8 bước đầu tập luyện giải mã các kí hiệu ghi chép nhạc, và học các bài TĐN để cho các em có ý thức hát đúng cao độ, trường độ, làm quen với các loại hình tiết tấu để giúp các em hát được lời ca chính xác hơn. Qua những bài TĐN cũng giáo dục nhạc cảm và giúp các em phát huy khả năng sáng tạo âm nhạc của mình. Ở trường THCS, TĐN không thể đạt được mục tiêu như ở trường âm nhạc chuyên nghiệp là “đọc thông - viết thạo” bản nhạc vì thời lượng tiết học quá ít và đối tượng học sinh đại trà. Chính bởi vậy không thể yêu cầu quá cao đối với học sinh lớp 8. Để rèn luyện kỹ năng đọc nhạc, cần nắm được phương pháp dạy TĐN kết hợp một số hoạt động khác trong quá trình này như: TĐN kết hợp với chỉ huy, TĐN - hát lời kết hợp với vận động, TĐN - hát lời kết hợp kiểm tra, TĐN kết hợp với sáng tác lời ca. Đọc nhạc là thực hiện một hệ thống kĩ năng giải mã các kí hiệu ghi nhạc trong cùng một lúc là: - Kĩ năng nhận dạng khuông nhạc, nhớ tên dòng và khe. - Kĩ năng xác định tên nốt trên khuông có khoá.
- 6 - Kĩ năng đọc đúng tương quan độ cao các nốt nhạc trên khuông có khoá theo giọng đã xác định (đọc giai điệu). - Kĩ năng nhận dạng các hình nốt, các kí hiệu có liên quan đến độ ngân cuả âm thanh, các dấu lặng để thể hiện đúng tương quan độ ngân (trường độ) giữa các hình nốt (độ tiết tấu). - Kĩ năng thực hiện các giá trị các kí hiệu ghi nhạc khác. 2.1.2. Tác dụng của việc học Tập đọc nhạc đối với học sinh. Hoạt động Tập đọc nhạc có nhiều tác dụng trong việc phát triển năng lực âm nhạc của học sinh. - TĐN vừa rèn luyện tai nghe và giọng hát, vừa nâng cao cảm nhận âm nhạc của học sinh. - TĐN hỗ trợ kiến thức cho nội dung khác như học hát, đọc nhạc đúng sẽ giúp học sinh hát đúng giai điệu. - TĐN giúp học sinh nắm vững hơn về kiến thức nhạc lí. - TĐN cung cấp cho học sinh những bài tập có giá trị nghệ thuật cao để làm giàu kiến thức âm nhạc. 2.1.3. Chương trình phân môn TĐN lớp 8. Lớp 8: TĐN Số 1 Chiếc đèn ông sao Phạm Tuyên TĐN Số 2 Trở về Su-ri-en-tô Nhạc I-ta-li-a TĐN Số 3 Hãy hót chú chim nhỏ hay hót Nhạc BaLan TĐN Số 4 Chim hót đầu xuân Nguyễn Đình Tấn TĐN Số 5 Làng tôi Văn Cao TĐN Số 6 Chỉ có một trên đời Trương Quang Lục TĐN Số 7 Dòng suối chảy về đâu Nhạc: Nga - Lời: Hoàng Lân TĐN Số 8 Thầy cô cho em mùa xuân Vũ Hoàng Các bài TĐN ở trường THCS thường được viết ở giọng Đô trưởng, La thứ, La thứ hoà thanh. Viết ở các nhịp đơn giản, âm vực không quá quãng 10, trường độ sử dụng các hình nốt tròn, trắng, nốt có chấm dôi, đen, đơn, kép. 2.2. Thực trạng vấn đề nghiên cứu
- 7 - Phân môn TĐN là một phân môn khó đối với học sinh khối lớp 8 trường THCS Liên Bảo. - Điều kiện cơ sở vật chất ở các trường còn nghèo nàn và thiếu thốn. Chưa có đủ đàn để cho giáo viên dạy nhạc, hoặc nếu có chất lượng đàn cũng chưa cao. Điều đó dẫn đến việc giáo viên gặp trở ngại khi dạy học cho học sinh theo phương pháp mới, nhằm phát huy tính tích cực của học sinh. Hoặc do không có phòng học chức năng nên việc dạy môn học âm nhạc không trở thành bộ môn quan trọng vì vậy nhiều giáo viên dạy hời hợt cho hết tiết, hoặc sợ ảnh hưởng tới môn học khác nên không phát huy được hết khả năng của học sinh. - Thiếu giáo viên được đào tạo đúng chuyên ngành trong nhiều năm, nên phần nào đó chưa đáp ứng được nhu cầu dạy và học. Giáo viên nhiều khi vẫn phải dạy chay hoặc dạy theo lối truyền khẩu. - Tình trạng học sinh ghi tên nốt nhạc vào SGK trở thành phổ biến. Các em không tự nhớ tên nốt trên khuông, bị phụ thuộc vào sách dẫn đến học phân môn này một cách thụ động nên dần dần không thấy hứng thú với phân môn này. 2.3. Mô tả, phân tích các biện pháp nghiên cứu 2.3.1. Dạy TĐN theo chuẩn kiến thức kĩ năng: TĐN là việc đọc cao độ và trường độ các nốt nhạc nhằm tìm ra và thể hiện đúng giai điệu của bản nhạc. Đọc nhạc rất quan trọng, nó có ý nghĩa trong việc học tập và cảm nhận âm nhạc. Đây là một trong những hoạt động quan trọng nhất để phát triển năng lực âm nhạc của học sinh bởi nó đòi hỏi các em phải có tai nghe, nắm vững tên nốt nhạc, có khả năng giải mã và khám phá giai điệu, có cảm nhận về âm thanh và biết thể hiện đúng về cao độ, trường độ, tốc độ, sự ngắt nghỉ. Học sinh phải đọc đúng tên nốt, cao độ của nốt, đọc đúng tiết tấu, đúng nhịp, đúng sắc thái tình cảm, hát đúng lời, biết đọc nhạc và gõ theo nhịp, gõ theo phách, gõ theo tiết tấu, đọc nhạc và hát lời dưới các hình thức: đơn ca, song ca, hòa giọng và đối đáp.
- 8 Nội dung này là một thách thức không nhỏ đối với việc học âm nhạc của học sinh lớp 8, vì thế kĩ năng đọc nhạc cần dạy một cách từ từ để dần dần trở nên quen thuộc. 2.3.1.1. Đặc điểm của TĐN: - Các bài TĐN viết ở giọng Đô trưởng gồm bài TĐN số 1, 4, 5, 6, 7, 8. - Viết ở giọng La thứ bài TĐN số 2. - Viết ở giọng La thứ hòa thanh bài TĐN Số 3. - Các bài TĐN viết ở nhịp 2 , 3 và 6 và có độ dài từ 8 đến 17 nhịp. 4 4 8 - Có3 bàiviếtở nhịplấyđà gồm bài TĐN số 6,7, 8. 2.3.1.2. Mục tiêu của dạy TĐN: - Học sinh hiểu bản chất của TĐN là quá trình khám phá ra giai điệu bản nhạc. - Học sinh nắm vững tên nốt nhạc, có kĩ năng giải mã về cao độ và trường độ của nốt nhạc để đọc đúng giai điệu, biết đọc bài TĐN kết hợp gõ phách hoặc đánh nhịp. - Giúp học sinh phát triển tai nghe, cảm thụ về âm thanh, tư duy sáng tạo, hỗ trợ việc học hát và phát triển năng khiếu âm nhạc của các em. 2.3.1.3. Kỹ thuật dạy TĐN: Khác biệt đặc trưng giữa dạy hát và dạy TĐN là khi dạy hát giáo viên cung cấp giai điệu cho học sinh thông qua tiếng đàn và hát mẫu để các em hát đúng giai điệu lời ca. Còn khi dạy TĐN, học sinh cần tự giải mã và khám phá được giai điệu của bản nhạc. Giáo viên chỉ nên hướng dẫn học sinh luyện tập cao độ, tiết tấu và phần nào đó dùng nhạc cụ giúp các em đọc đúng giai điệu. Giáo viên không nên đọc mẫu, vì đó là dạy truyền khẩu, giảm tính tích cực của học sinh và cũng không nên sử dụng đàn quá nhiều làm giảm khả năng khám phá của các em. * Giới thiệu bài TĐN: - Giáo viên treo bài TĐN lên bảng. - Giáo viên giới thiệu ngắn gọn về tên, tác giả bài TĐN.
- 9 Dạy bài hát thì có thể mở rộng thông tin về tác giả, nhưng dạy bài TĐN thì không nên. Học sinh chỉ cần biết bài TĐN do ai sáng tác, trích từ bản nhạc nào, không cần những thông tin mở rộng về tác giả, vì không có nhiều thời gian cho việc đó. - Ví dụ: Bài TĐN số 1 là đoạn trích trong bài hát: Chiếc đèn ông sao của nhạc sĩ Phạm Tuyên. Đây là nhạc sĩ có nhiều sáng tác hay cho thiếu nhi. * Tìm hiểu bài TĐN: Khi tìm hiểu về bài TĐN, học sinh cần trả lời một vài câu hỏi như: - Bản nhạc viết ở nhịp nào? - Có dùng nhịp lấy đà không? - Trong bài có những kí hiệu âm nhạc nào? - Nốt thấp nhất và nốt cao nhất là nốt nào? - Có những hình nốt nào? - Bài TĐN có thể chia thành mấy câu? Đôi khi tạo cho học sinh tập nói tên nốt nhạc trong từng câu nếu giáo viên nhận thấy các em chưa thật nắm vững tên nốt nhạc. * Luyện tập cao độ: - Giáo viên hỏi học sinh về cao độ các nốt sử dụng trong bài TĐN. - Cho học sinh đọc các âm có trong bài từ âm thấp đến âm cao và ngược lại. - Luyện cao độ theo Gam trưởng (thứ) tương ứng với giọng của bài. * Luyện tiết tấu: - Giáo viên viết tiết tấu chủ đạo của bài TĐN lên bảng (hoặc trình chiếu). - Giáo viên gõ tiết tấu làm mẫu. - Giáo viên hướng dẫn học sinh luyện tập tiết tấu. * Tập đọc từng câu: - Giáo viên đàn giai điệu cả bài một lần để học sinh bước đầu hình dung ra giai điệu, đồng thời giúp các em cảm thấy tự tin hơn. - Giáo viên dùng nhạc cụ để lấy âm thanh mẫu rồi chỉ từng nốt của từng câu để cả lớp đồng thanh đọc. Khi học sinh không đọc được, giáo viên nên đàn giai điệu từng câu vài ba lần, nhắc học sinh vừa lắng nghe, vừa quan sát nốt nhạc và
- 10 đọc thầm theo. Giáo viên cho học sinh học từng câu, nối các câu, nối đoạn và hoàn thành cả bài “TĐN”. * Tập đọc cả bài: - Giáo viên đàn giai điệu, học sinh đọc cả bài hoà với tiếng đàn, vừa đọc vừa gõ tiết tấu. - Giáo viên chỉ định một vài học sinh khá đọc bài, làm mẫu cho các bạn. - Giáo viên lắng nghe học sinh đọc để phát hiện chỗ sai, hướng đẫn sửa sai. * Ghép lời ca: - Giáo viên đàn giai điệu, nửa lớp đọc nhạc đồng thời nửa lớp còn lại tập ghép lời. Giáo viên chỉ định học sinh hát lời. Giáo viên sửa chỗ sai. Giáo viên hướng dẫn học sinh hát lời và gõ phách. * Củng cố, kiểm tra: - Giáo viên hướng dẫn học sinh đọc nhạc, ghép lời kết hợp gõ phách hoặc đánh nhịp. - Hướng dẫn học sinh trình bày bài TĐN theo tổ, nhóm hoặc cá nhân. 2.4. Kết hợp kiến thức khi dạy TĐN: Kết hợp các kiến thức là một yêu cầu đặt ra với mọi môn học (hiện nay thường được gọi là “tích hợp” hoặc “lồng ghép”). Có thể kết hợp kiến thức giữa các môn học khác nhau, hoặc kết hợp kiến thức ở các nội dung trong cùng một môn học. 2.4.1. Dạy TĐN tích hợp liên môn: Ví dụ: Bài TĐN số 1: Chiếc đèn ông sao - Phạm Tuyên; bài TĐN số 4: Chim hót đầu xuân - Nguyễn Đình Tấn, giáo viên tích hợp học tập và làm thoe tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Bác Hồ dù bận trăm công nghìn việc vần dành thời gian quan tâm đến các em thiếu nhi, lời ca của hai bài hát đều nhắc đến Bác Hồ.
- 11 Ngoài ra giáo viên giải thích từ khó trong bài TĐN, xuất xứ bài hát, đó là sự kết hợp kiến thức môn Ngữ văn, Giáo dục công dân, Địa lý, hình thức này gọi là tích hợp liên môn. Ví dụ:bàiTĐNsố2,3,6,7 :
- 14 Các bài TĐN trên liên quan đến kiến thức địa lý, nói về đất nước Italia, BaLan, Nga. Đây là các bài TĐN của nước ngoài nhưng do các nhạc sĩ Việt Nam đặt lời mới. Khi giải thích về số chỉ nhịp 2 , 3, 6 là sự kết hợp với kiến thức môn toán. 4 4 8 2.4.2. Dạy TĐN kết hợp kiến thức các nội dung của môn học: Ở môn âm nhạc, khi học sinh đọc nhạc rồi hát lời, sau đó đánh nhịp hoặc vận động, đó là sự kết hợp các nội dung trong cùng một môn học. Trong quá trình dạy TĐN, việc kết hợp nhiều hoạt động khác nhau có tác dụng củng cố bài, hoàn thiện kĩ năng đọc nhạc của học sinh. Có thể kết hợp một số hoạt động như: * TĐN, hát lời kết hợp đánh nhịp: Sau khi học sinh đã đọc đúng giai điệu và hát trôi chảy, để nâng cao kĩ năng đọc nhạc, giáo viên yêu cầu các em TĐN, hát lời và kết hợp đánh nhịp (chỉ huy). Hầu hết các bài TĐN viết ở nhịp2 , 3 nên sự kết hợp này không khó khăn đối với 4 4 học sinh. Nhưng những bài đọc nhạc viết ở nhịp 6 như “Làng tôi”, “Chỉ có một 8 trên đời” thì không nên yêu cầu các em đọc nhạc kết hợp đánh nhịp, với học sinh lớp 8 vì thực hiện điều đó không dễ dàng. * TĐN, hát lời kết hợp kiểm tra: Khi học sinh đã đọc đúng giai điệu và hát lời trôi chảy, giáo viên có thể tiến hành kiểm tra việc học tập của các em. Đây cũng là hình thức củng cố kiến thức để học sinh ghi nhớ bài tốt hơn, nhanh hơn. * TĐN kết hợp viết lời mới: Hoạt động này giáo viên nên tiến hành trong tiết ôn tập và kiiểm tra, vì để viết lời mới cần khá nhiều thời gian. Đây là hoạt động mang nhiều nét sáng tạo, nên học sinh cần có quá trình luyện tập từ quen thuộc tiến tới thuần thục. 2.5. Phương pháp dạy TĐN tích cực: Về cách dạy TĐN, trước đây nhiều giáo viên thường quan niệm như dạy một bài xướng âm ở các trường chuyên nghiệp, họ yêu cầu học sinh phải tự đọc
- 15 đúng cao độ, trường độ và thể hiện sắc thái của bài TĐN. Hoặc giáo viên ra sức dạy học sinh theo lối truyền khẩu, tức là giáo viên đọc tên nốt nhạc, học sinh tập đọc theo. Cách dạy đó thực sự gây nên sự căng thẳng, nặng nề, làm cho học sinh ngại học phân môn này. Chính vì thế tiết dạy trở nên kém hiệu quả, không phù hợp với mục đích và yêu cầu dạy âm nhạc ở trường THCS. Cách dạy thích hợp và hiệu quả nhất là khi dạy học sinh đọc cao độ, giáo viên dựa vào tiếng đàn để làm mẫu cho các em. Việc thể hiện trường độ và tiết tấu phải chuẩn bị bằng những bài tập tiết tấu trong mỗi tiết học, bài học. Giáo viên đàn từng câu ngắn cho học sinh nghe và đọc theo trôi chảy, chuẩn xác, sau đó ghép từng câu thành bài hoàn chỉnh và kết hợp gõ phách. Cách dạy này đã kiểm nghiệm thực tế rất phù hợp với học sinh lớp 8. Phải thể hiện trong cùng một lúc các kĩ năng trên là một yêu cầu khó đối với học sinh lớp 8 vì thời lượng của mỗi tiết học quá ít. Các tiết học lại được phân bố quá thưa, sĩ số học sinh mỗi lớp đông, khả năng âm nhạc của học sinh không đồng đều, phương tiện dạy và học bộ môn âm nhạc ở trường phổ thông còn thiếu thốn. Để khắc phục những nhược điểm trên, việc nghiên cứu và giảng dạy bộ môn với một hệ thống phương pháp và thủ pháp mang tính đặc trưng phù hợp với đặc điểm dạy và học trong nhà trường. Việc dạy tách biệt các kĩ năng giải mã chữ nhạc như kĩ năng tập đọc giai điệu, kĩ năng thực hành tiết tấu, kĩ năng biết tên nốt trên khuông có khoá, kĩ năng đọc nhạc trên khuông là phù hợp với học sinh. 2.5.1. Dạy đọc giai điệu: Cách dạy này chủ yếu giúp giáo viên dạy học sinh đọc đúng quan hệ cao độ nối tiếp giữa các âm trong một giọng nhất định mà không phụ thuộc vào tiết tấu, nhịp điệu, hình nốt trên khuông và các kí hiệu khác. Độ ngân của mỗi âm dài hay ngắn tuỳ thuộc vào người dạy và người đọc, miễn sao đọc đúng được quan hệ cao độ của các âm đó. 2.5.1.1. Cơ chế phát âm của dây thanh:
- 16 Như chúng ta đã biết mỗi một nhạc khí có một cơ chế phát âm riêng. Bộ máy phát âm của con người cũng là một loại nhạc khí mà hai dây thanh thực chất là 2 dây cơ đàn hồi đặc biệt. Sự dài ngắn, dày mỏng, co giãn, căng trùng của nó quyết định sự phát âm trầm bổng của tiếng nói tiếng hát. Muốn có âm thanh trước tiên dây thanh phải rung động. Muốn dây thanh rung động cần phải có 2 lực: - Lực thứ nhất là lực đẩy hơi từ phổi lên lọt qua kẽ hở của 2 dây thanh làm cho chúng rung lên tạo ra âm. Lực đẩy mạnh dây thanh rung mạnh cho âm thanh to, lực đẩy nhẹ dây thanh rung nhẹ cho âm thanh nhỏ. - Lực thứ hai là lực căng chùng của âm thanh, khi căng cho âm cao, bổng, khi chùng âm trầm thấp. 2.5.1.2. Âm trung bình: - Khi dạy học sinh tập đọc một thang âm, phải để các em đọc trong tầm giọng. Âm bắt giọng phải là âm trung bình của thang âm được đọc ở tầm trung bình của tầm giọng. Từ âm trung bình cho đọc phát triển lên cao rồi xuống thấp. Vì khi đọc lên cao, lực đẩy hơi mạnh nên dễ điều chỉnh. - Nếu bài TĐN được bắt đầu bằng âm thấp hoặc âm cao của thang âm, giáo viên cũng phải rèn luyện học sinh có thói quen bắt giọng bằng âm trung bình của thang âm ở tầm trung bình của tâm giọng để từ đó bắt vào bài cao hay thấp. Đó là yêu cầu đầu tiên để từng học sinh tập đọc giai điệu cho đúng. 2.5.1.3. Cách đọc các âm cao và thấp của thang âm: Khi học sinh đọc không đúng các âm bổng hoặc trầm, ta hay dùng các câu gợi ý: em hãy đọc cao lên hoặc em hãy đọc thấp xuống. Các tiếng cao lên, thấp xuống không gợi mở cụ thể cách thức để các em phát âm cho đúng. Muốn các em đọc đúng ta hãy thay cụm từ đọc cao lên bằng cụm từ đọc to lên, mạnh lên và thay cụm từ đọc thấp xuống bằng cụm từ đọc nhỏ đi, nhẹ đi. Qua luyện tập nhiều lần các em sẽ có kinh nghiệm tự điều chỉnh lực căng chùng của dây thanh để phát âm đúng các âm trầm bổng mà không phụ thuộc vào lực đẩy của hơi. 2.5.1.4. Tập đọc từ câu ngắn đến câu dài:
- 17 Khi mới tập đọc, tốc độ phát âm chậm nên mỗi lần lấy hơi chỉ nên đọc từng chuỗi 3 âm. Khi việc phát âm thành thạo dần thì lượng phát âm trong mỗi lần lấy hơi sẽ tăng từ 3 âm lên 4 âm, 5 âm, và 6, 7 âm. Số lượng âm càng nhiều tốc độ đọc càng nhanh, giúp học sinh chóng đọc thành thạo do phản xạ nhận biết kí hiệu và phản xạ phát âm càng nhanh. 2.5.1.5. Tập đọc các quãng từ dễ đến khó: Tập đọc lên, xuống các quãng liền bậc trước, đến các quãng cách bậc gần (quãng 3, 4) rồi mới đến các quãng cách bậc xa (quãng 5, 6, 7, 8) quãng cách đi lên trước, đi xuống sau. 2.5.1.6. Vần nhạc: Cũng giống như phép tạo âm trong tiếng việt, từ những con chữ riêng lẻ liên kết lại thành những vần. Vần dễ học trước, vần khó học sau. Trong âm nhạc cũng vậy, nó cũng có sự liên kết giữa các âm trong giai điệu. Vì vậy thuật ngữ vần nhạc đã được tạm dùng để chỉ sự liên kết đó. Có 2 loại vần nhạc: vần liền bậc và vần cách bậc. - Vần liền bậc: là những vần được tạo thành bằng các mối liên kết nối tiếp liền bậc đi ngang, đi lên hoặc đi xuống giữa các âm thanh. Đây là vần dễ đọc nhất dùng cho học sinh luyện đọc ban đầu để làm quen với thang âm. - Vần cách bậc: là những vần được tạo thành bởi 1 hay 2 quãng cách nằm ở giữa vần với 1 âm tiếp đầu và 1 âm tiếp cuối, là những quãng liền bậc đi lên hoặc đi xuống nối tiếp với các quãng cách. Chính các cách nối tiếp với âm đầu và âm cuối khác nhau mà chúng làm cho việc đọc quãng cách ở giữa vần có mức độ dễ, khó khác nhau và tạo ra nhiều dạng của vần. 2.5.1.7. Đọc theo thế tay: Là đọc theo tư thế bàn tay. Có bẩy tư thế khác nhau tương ứng với 7 âm cơ bản. Đây là một thủ pháp hay và hiệu quả, phù hợp với phương thức dạy nhạc trong trường phổ thông. Khi sử dụng thế tay ta không cần đến kí hiệu viết, nhất là viết nhạc trên khuông, tránh được nhiều thời gian chết trên lớp, sử dụng tối đa quỹ thời gian của tiết học cho học sinh luyện đọc. Nó khắc phục được nhược điểm ít thời gian lại đông học sinh của bộ môn âm nhạc.
- 18 Thế tay còn khắc phục được tình trạng đọc thuộc lòng theo cách truyền khẩu. (Hình ảnh minh họa tư thế bàn tay của 7 âm cơ bản) 2.5.2. Dạy thực hành tiết tấu: Tiết tấu là quan hệ độ ngân dài, ngắn hay không ngân nối tiếp nhau của một chuỗi âm thanh. Dạy thực hành tiết tấu là dạy thể hiện mối quan hệ đó. Trong hệ thống các kí hiệu ghi nhạc, tiết tấu được thể hiện bằng bác hình nốt và các dấu lặng khác nhau. 2.5.2.1. Cách dạy hình nốt đen: Cho học sinh vừa hát vừa gõ phách câu đầu bài “Như có Bác trong ngày đại thắng” (thuật ngữ và kĩ năng gõ vỗ phách, nhịp, vỗ theo lời ca các em đã học và thể hiện). Khi học sinh vừa hát vừa gõ phách, giáo viên dùng phấn đánh dấu lần lượt từng tiếng gõ phách đó bằng các dấu chấm trên một đường thẳng ngang trên bảng. Các chấm đó có cự li bằng nhau thể hiện thời gian ngân bằng nhau của mỗi phách. Để ghi lại thời gian ngân của từng phách đều đặn như vậy người ta dùng một kí hiệu đó là hình nốt đen. 2.5.2.2. Cách dạy dấu lặng đen: Với câu hát trên, lần thứ nhất cho các em vừa hát vừa gõ phách đệm, lần thứ 2 vừa hát vừa gõ nhịp (phách thứ nhất gõ, phách thứ 2 không gõ). Giáo viên ghi lại cách gõ trên và cho học sinh biết. Có một kí hiệu để ghi lại những phách không gõ khi các em gõ, kí hiệu đó gọi là dấu lặng đen. Do các âm cách nhau không vang lên nên được diễn tả bằng dấu lặng đen. 2.5.2.3. Cách dạy hình nốt trắng: Để ghi lại thời gian ngân dài của một âm thanh bằng thời gian ngân dài của hai hình nốt đen có cùng độ cao nối tiếp nhau, ta có kí hiệu một hình nốt trắng.
- 19 Thời gian ngân dài của một hình nốt trắng bằng thời gian ngân dài của 2 hình nốt đen nối tiếp nhau. 2.5.2.4. Cách dạy hình nốt móc đơn: Giáo viên viết lên bảng 3 nốt đen đứng cạnh nhau và 1 dấu lặng đen. Giáo viên gõ từng chữ nốt cho học sinh đọc 1,2 lần rồi đặt câu hỏi cho học sinh nhắc lại để nhớ. Thời gian ngân của một hình nốt đen bằng thời gian ngân của 2 hình mốt móc đơn nối tiếp nhau (hoặc ngược lại). Giáo viên cho học sinh gõ tiết tấu móc đơn và so sánh sự khác nhau với tiết tấu hình nốt đen. Lưu ý: trong bản nhạc, nếu 2 hình nốt móc đơn liền nhau có 2 lời ca tương ứng thì phải viết rời nhau. 2.5.3. Dạy nói và đọc tên nốt trên khuông bàn tay: Bàn tay có 5 ngón giống như một khuông có 5 dòng kẻ và 4 khe. Giáo viên sử dụng khuông bàn tay để dạy học sinh tập nhận biết vị trí các nốt trên khuông sẽ rất đơn giản linh hoạt, không cần đến các kí hiệu viết, tiết kiệm thời gian trên lớp và có ấn tượng cụ thể đối với học sinh. Học sinh sử dụng khuông bàn tay để học, để ôn tập ở mọi lúc mọi nơi, dễ thuộc dễ nhớ. 2.5.3.1. Giới thiệu khuông bàn tay: Bàn tay trái giáo viên để ngang (học sinh sẽ làm bằng bàn tay phải cùng hướng với giáo viên) xoè rộng 5 ngón tay dưới tầm mắt, lòng bàn tay quay vào trong, ngón cái ở phía trên. Gợi mở để học sinh nhận biết số thứ tự của 5 ngón tay và 4 khe tính từ dưới lên (lúc đầu nắm tay rồi xoè từng ngón, bắt đầu từ ngón út để học sinh đếm số thứ tự). Dùng ngón tay trỏ của bàn tay phải chỉ các ngón, các khe để học sinh nói tên thứ tự. Khi chỉ vào ngón tay thì chỉ ở đầu ngón, khi chỉ vào khe ngón tay thì ngón trỏ được kẹp ở chính giữa khe (có thể thay ngón trỏ bằng đũa chỉ nốt). 2.5.3.2. Đặt tên nốt nhạc cho ngón tay và khe tay: Giáo viên cho học sinh chơi trò chơi đặt tên âm nhạc cho các ngón và khe tay: ngón 1 (ngón út) là ngón Mi, ngón 2 là ngón Son, khe tay 2 là khe La, khe tay 3 là khe Đô. Để rèn kĩ năng nhớ tên cho học sinh chơi trò “Gọi tên” theo cách sau:
- 20 - Giáo viên chỉ ngón, chỉ khe cho học sinh nói tên. - Giáo viên nói tên, học sinh chỉ ngón, chỉ khe. 2.5.3.3. Giới thiệu khuông và vị trí các nốt trên khuông: Giáo viên để ngửa bàn tay trên bảng, cho học sinh ôn lại số thứ tự ngón và khe cùng tên âm nhạc của chúng. Sau đó kéo dài khuông bàn tay ngang trên bảng đen và cho học sinh nhận ra khuông bàn tay bây giờ là 5 dòng kẻ thẳng song song ở trên bảng. Gợi ý để học sinh tự xác định số thứ tự dòng, khe và tên âm nhạc của chúng rồi cho các em biết 5 dòng kẻ đó gọi là cái khuông, còn 5 ngón tay của bàn tay gọi là khuông bàn tay. 2.5.3.4. Giới thiệu nốt nhạc: Mỗi lần đũa chỉ nốt gõ vào dòng hoặc khe nào cho học sinh đọc tên xong, giáo viên vẽ một hình que chỉ nốt nhỏ (hình nốt đen) vào dòng hoặc khe đó rồi cho các em biết đấy là những nốt nhạc. Nốt nhạc này mang tên dòng hoặc khe mà nó được viết trên đó. 2.6. Một bài dạy học minh họa: Tiết 2:- Ôn tập bài hát: Mùa thu ngày khai trường - Tập đọc nhạc: TĐN số 1. I. MỤC TIÊU 1. Năng lực a. Các năng lực chung - Năng lực tự học. - Năng lực hợp tác. b. Các năng lực đặc thù *Hình thành năng lực hiểu biết âm nhạc. - HS biết: hát đúng giai điệu, lời ca của bài hát “Mùa thu ngày khai trường”. Biết cách lấy hơi, hát rõ lời, diễn cảm. HS biết bài TĐN số 1 là trích đoạn trong bài hát của nhạc sĩ Phạm Tuyên. - HS hiểu và nói đúng tên nốt nhạc, đọc đúng giai điệu, ghép lời ca. - HS vận dụng: biểu diễn bài hát dưới hình thức đơn ca, song ca, tốp ca. Đọc nhạc kết hợp gõ đệm hoặc đánh nhịp. *Hình thành năng lực hoạt động âm nhạc