Sáng kiến kinh nghiệm Phát triển năng lực đọc hiểu văn bản truyện cho học sinh Lớp 8
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Phát triển năng lực đọc hiểu văn bản truyện cho học sinh Lớp 8", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
sang_kien_kinh_nghiem_phat_trien_nang_luc_doc_hieu_van_ban_t.docx
Nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Phát triển năng lực đọc hiểu văn bản truyện cho học sinh Lớp 8
- BÁO CÁO SÁNG KIẾN I) ĐIỀU KIỆN HOÀN CẢNH TẠO RA SÁNG KIẾN Như chúng ta đều hiểu rõ môn ngữ văn chiếm một vị trí quan trọng đặc biệt trong hệ thống chương trình giáo dục phổ thông, Trước hết, Ngữ văn là một môn học thuộc phân ban khoa học xã hội có vai trò to lớn trong việc giáo dục quan điểm, tư tưởng, tình cảm cho học sinh. Môn Ngữ văn còn là một môn học công cụ, góp phần hình thành những con người có trình độ học vấn ngày càng cao. Đồng thời góp phần xây dựng nhân cách cho học sinh - những công dân trẻ có lòng yêu nước, niềm tự hào dân tộc sâu sắc, có ý thức tự tu dưỡng; biết yêu thương, quí trọng gia đình, bè bạn; biết hướng tới những tình cảm cao đẹp như lòng nhân ái, tinh thần tôn trọng lẽ phải, sự công bằng, sự căm ghét cái ác, cái xấu. Môn Ngữ văn cũng giúp cho học sinh biết rèn luyện để có tính tự lập, có tư duy sáng tạo, bước đầu có năng lực cảm thụ các giá trị Chân – Thiện – Mĩ trong nghệ thuật cũng như trong cuộc sống; có năng lực thực hành và sử dụng Tiếng Việt như một công cụ để tư duy, giao tiếp. Trong thời kỳ đổi mới của các ngành khoa học cũng như đổi mới của giáo dục, để đạt được mục tiêu giáo dục nêu trên; chương trình, phương pháp giảng dạy và bộ sách giáo khoa Ngữ văn đổi mới đã kịp thời đáp ứng một cách căn bản. Bên cạnh những hướng cải tiến chung như giảm tải, tăng thực hành, gắn với đời sống; thì nét nổi bật nhất của chương trình Ngữ văn THCS là được xây dựng theo tinh thần tích hợp và theo hướng đồng tâm. Các văn bản được lựa chọn theo tiêu chí kiểu văn bản và tương ứng với kiểu văn bản là thể loại tác phẩm chứ không phải là sự lựa chọn theo lịch sử văn học về nội dung. Ngoài yêu cầu về tính tư tưởng, phù hợp với tâm lý lứa tuổi học sinh THCS các văn bản được lựa chọn còn có nội dung là tính cập nhật, gắn kết với đời sống, đưa học sinh trở lại những vấn đề quen thuộc, gần gũi hàng ngày lại vừa có tính lâu dài mà mọi người đều quan tâm đến. Học sinh của chúng ta hiện nay luôn được tiếp cận với nhiều kiến thức khoa học tiên tiến, với nhiều môn học mới lại đầy hấp dẫn nhằm hoàn thiện và bắt kịp công cuộc đổi mới, phát triển toàn diện của đất nước. Trong các môn học ở trường phổ thông, Ngữ văn được xem là môn học cơ bản, là nền tảng để các em phát huy năng lực của bản thân trong việc tiếp thu và học tập các môn khoa học khác. Tuy nhiên để học sinh học tập tốt môn Ngữ văn thì giáo viên phải cung cấp đầy đủ lượng kiến thức cần thiết, cần đổi mới các phương pháp dạy học, làm cho các em trở nên yêu thích văn học hơn, vì thế là một giáo viên dạy Văn ở trường THCS chúng tôi luôn suy nghĩ làm sao để truyền đạt kiến thức đến các em một cách đơn giản, dễ hiểu mà các em có thể lĩnh hội kiến thức cơ bản một cách vững vàng và dễ dàng, tạo điều kiện cho các em yêu thích môn Văn, tránh cho các em có suy nghĩ môn Văn là khó và dài. Nên đòi hỏi phải đổi mới phương pháp dạy và học là vấn đề thời sự cho việc nâng cao chất lượng giáo dục, có ý nghĩa thực tiễn và khoa học trong giáo dục và đời sống. Đổi mới dạy và học là việc làm của tất cả mọi người từ cấp quản lý cho tới từng giáo viên. Nghị quyết 29 - NQ/TƯ về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo vừa qua đã chỉ ra rằng: “Dạy học theo hướng tích hợp” để phát triển năng lực của học sinh là một trong những vấn đề cần ưu tiên của chương trình mới. Chương trình GDPT môn Ngữ văn theo Chương trình GDPT với quan điểm lấy việc rèn luyện các kĩ năng đọc, viết, nói, nghe làm trục chính xuyên suốt cả ba cấp học nhằm đáp ứng yêu cầu định hướng phát triển năng lực người học, bảo đảm tính chỉnh thể, sự nhất quán liên tục trong tất cả các cấp học, lớp học. Các kiến thức phổ thông cơ
- 2 bản, nền tảng về tiếng Việt và văn học được hình thành qua hoạt động dạy học tiếp nhận và tạo lập văn bản, phục vụ trực tiếp cho yêu cầu rèn luyện các kĩ năng đọc, viết, nói và nghe. Chương trình vừa đáp ứng yêu cầu đổi mới, vừa chú trọng kế thừa và phát huy những ưu điểm của Chương trình 2006.Với quan điểm xây dựng chương trình theo hướng mở. Chương trình giáo dục phổ thông 2018 là chương trình giáo dục tiếp cận theo hướng phát triển năng lực người học. Chương trình không chỉ cung cấp kiến thức cho HS mà chú trọng nhiều hơn đến việc tiến hành các biện pháp, cách thức hoạt động linh hoạt, sáng tạo, hiệu quả nhằm khơi dậy khả năng tìm kiếm, giải quyết vấn đề của người học, giúp người học biết vận dụng những kiến thức đã học gắn liền với cuộc sống để giải quyết các tình huống. Bên cạnh đó, do đặc thù bộ môn, học sinh tiếp cận kiến thức văn học phải gắn liền với khả năng cảm thụ văn học. Để làm được điều đó, chúng ta phải hình thành và nâng cao ở học sinh năng lực đọc hiểu văn bản nói chung và văn bản truyện nói riêngLà một giáo viên dạy trực tiếp giảng dạy môn Ngữ văn 8, cả chương trình chưa thay sách và chương trình thay sgk mới năm học 2023-2024. Tôi nhận thấy bản thân tôi còn có một số hạn chế trong phần giảng dạy truyện ngắn, phần kiến thức các văn bản truyện thực sự rất hay và có tính giáo dục cao.tuy nhiên để năm chắc 1văn bản, biết được chủ đề, nội dung và rút ra được bài học ý nghĩa cho học sinh, đòi hỏi mỗi người giáo viên phải biết cách truyền cảm hứng đoc cho mỗi học sinh. Bằng cách này hay cách khác, bằng cách truyền thống hay kết hợp cả truyền thống và hiện đại thì mỗi giáo viên trực tiếp giảng dạy đề mong muốn giúp học sinh thấy được ý nghĩa giáo dục của mỗi câu truyện. Từ cách nghĩ và cách làm đó tôi đã nảy sinh ra việc viết sáng kiến “ Phát triển năng lực đọc hiểu văn bản truyện cho học sinh lớp 8” với mục đích khi các em các tác phẩm truyện các em đều có hứng thú đọc, tò mò thích khám phá, thích đọc truyện, từ đó nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy. II) MÔ TẢ GIẢI PHÁP 1) Mô tả giải pháp trước khi tạo ra sáng kiến 1.1) Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm Năm học 2022- 2023chúng tôi đã được nhà trường phân công giảng dạy bộ môn Ngữ văn 8. Qua thực tế dạy và thông qua các kì thi khảo sát chất lượng cuối năm, chúng tôi nhận thấy các em học sinh chưa có kĩ năng thành thạo khi làm các dạng bài đọc hiểu truyện ở lớp 8. Vì lí do đó để trả lời được các dạng câu hỏi đòi hỏi phải lập luận và liên hệ thực tế cần phải có kĩ năng nhận dạng và có cách rả lời thể cho từng dạng câu hỏi; Cụ thể kết quả kiểm tra dạng câu hỏi đọc hiểu vận dụng vào 3 hai lớp 8A, 8B , 8C vào tháng 3 năm học 2022- 2023 được thống kê như sau: Lớp Sĩ số Giỏi Khá Trung bình Yếu ( kém) SL % SL % SL % SL % 8A 36 3 8,3 8 22,2 15 41,7 10 27,7 8B 36 7 19,4 12 33,3 11 30,6 6 16,7 8C 37 8 21,6 15 40,5 10 27,2 4 10,8 1.2) Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề Thông qua kết quả khảo sát chúng tôi đã suy nghĩ cần phải có biện pháp thích hợp để giảng dạy, truyền đạt cho học sinh nắm vững những yêu cầu trong quá trình
- 3 đọc hiểu các văn bản truyện trong sách ngữ văn 8 mới. Chúng tôi mạnh dạn nêu ra một số câu hỏi nhắm “Phát triển năng lực đọc hiểu văn bản truyện cho học sinh lớp 8” 2) Mô tả giải pháp sau khi có sáng kiến: 2.1) Phạm vi và đối tượng nghiên cứu của sáng kiến - Giới hạn nghiên cứu: Khi áp dụng phương pháp hướng dẫn học sinh trong việc “ Phát triển năng lực đọc hiểu văn bản truyện cho học sinh lớp 8” sẽ giúp học sinh khắc sâu kiến thức bài học, từ đó phân loại và biết cách trả lời một cách khoa học, chính xác. Kết quả học tập của học sinh được nâng cao rõ rệt, tạo cho học sinh sự say mê hứng thú trong học tập cũng như kích thích khả năng tìm tòi, học hỏi của học sinh. Học sinh sẽ chủ động lĩnh hội kiến thức bài học, giảm áp lực trong học tập của các em. Sáng kiến được áp dụng cho năm học 2023 – 2024. - Phạm vi thời gian: Không gian: Lớp 8A,B,C trường THCS Nguyễn Phúc – Vụ Bản – Nam Định. Thời gian thực hiện: Từ ngày 01 tháng 3 năm học 2023 đến ngày 18 tháng 4 năm 2024. - Đối tượng nghiên cứu: Để áp dụng sáng kiến này giáo viên cần tích cực nghiên cứu các tài liệu liên quan, nắm chắc phương pháp giải của từng dạng toán trong sáng kiến. Học sinh có đầy đủ SGK, SBT và nắm vững khái niệm truyện ngân là gì trong phần tri thức ngữ văn. Bài 6 bài 8 sách Ngữ văn 8 ( Bộ Kết nối tri thức với cuộc sống) Chúng tôi đã áp dụng sáng kiến này từ tháng 3 năm 2024 vào việc dạy và ôn tập cho học sinh lớp 8A, 8B, 8C THCS Nguyễn Phúc – Vụ Bản – Nam Định kiểm tra khảo sát cuối năm năm học 2023-2024. 2.2) Mục đích của sáng kiến Nhằm giải đáp những vướng mắc khi gặp các đề văn đọc hiểu truyện ngắn bất kì trong và ngoài sgk. 2.3) Phương pháp nghiên cứu - Phương pháp nghiên cứu tài liệu: Nghiên cứu tài liệu để làm cơ sở lí luận; - Phương pháp phân tích: Thông qua dự giờ, đàm thoại với đồng nghiệp là giáo viên chủ nhiệm của khối 8 để tìm hiểu phương pháp lựa chọn, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ lớp với kinh nghiệm của bản thân để đưa ra phương pháp thích hợp; - Tiếp xúc trò chuyện với học sinh để nắm rõ thông tin phản hồi; - Phương pháp kiểm tra: Kiểm tra chất lượng hoạt động, lập bảng thống kê so sánh, đối chiếu kết quả hoạt động khi chưa áp dụng và đang áp dụng đề tài. Từ đó kiểm nghiệm lại mức độ thành công của đề tài; - Nghiên cứu hoàn cảnh, môi trường, điều kiện học tập của học sinh; - Phương pháp đối chiếu, thống kê, so sánh. 2.4) Nội dung nghiên cứu a) Thực trạng của nội dung nghiên cứu *) Cơ sở lý luận Như đã nói ở trên, đề bài và nhiều câu hỏi đọc hiểu truyện ngắn học sinh thường bắt gặp khi làm các đề kiểm đề thi khảo sát giữa kì 2 và cuối năm ở chương trình lớp 8 mới. Để làm tốt các đề văn đọc hiểu truyện ngắn ở lớp 8 mới này đòi hỏi học sinh cần:
- 4 + Đọc hiểu để có được những ấn tượng chung về văn bản; nhận biết được các chi tiết tiêu biểu, đề tài câu chuyện, nhân vật trong tính chỉnh thể tác phẩm. + Nhận biết được chủ đề của văn bản. + Nhận biết được tình cảm, cảm xúc của người viết thể hiện qua ngôn ngữ văn bản. + Tóm tắt được văn bản một cách ngắn gọn, sâu sắc. + Nhận biết được một số yếu tố của truyện như: cốt truyện, nhân vật, lời người kể chuyện và lời nhân vật. + Nhận biết và hiểu được đặc điểm nhân vật thể hiện qua hình dáng, cử chỉ, hành động, ngôn ngữ, ý nghĩ của nhân vật. + Nhận biết được người kể chuyện ngôi thứ nhất và người kể chuyện ngôi thứ ba. + Nhận biết được điểm giống nhau, khác nhau giữa các nhân vật trong văn bản. + Rút ra được bài học về cách nghĩ, cách ứng xử của cá nhân do văn bản đã đọc gợi ra. *) Cơ sở thực tiễn - Thuận lợi, khó khăn: + Đối với giáo viên Khi dạy về các văn bản truyện ngắn như ; Lặng lẽ Sa pa ( Nguyễn Thành Long) Những ngôi sao xa xôi ( Lê Minh Khuê) Hay truyện ngắn nước ngoài Mắt Sói ( Đa-ni- en Pic- nick). Thông thường giáo viên chỉ thực hiện nhiệm vụ theo phân phối chương trình với nội dung SGK đã gợi ý, chưa quá chú ý đến đầu tư cho việc hệ thống, phân dạng các bài tập. Bên cạnh đó các bài tập thể hiện trong SGK và SBT số lượng không nhiều, chưa đề cập hết các dạng cơ bản cần thiết. Do đó kết quả học tập của học sinh đối với các bài tập về phần đọc hiểu thường không cao nếu giáo viên không có sự tập hợp sắp xếp đầy đủ khoa học. + Nguyên nhân - Có lẽ từ trước đến nay, việc dạy học đọc hiểu văn bản trong nhà trường từ phía người dạy lẫn người học đều có những mặt tích cực. Nhưng, bên cạnh đó vẫn còn tồn tại nhiều bất cập khác. - Dễ thấy nhất là về phía người học vẫn còn tình trạng học thụ động, thiếu sáng tạo vì hoàn toàn mất năng lực đọc hiểu văn bản văn học. Hoặc là các em không biết tự học vì mất kiến thức căn bản của bộ môn, hay là học tập thiếu sự tương tác giữa thầy và trò, giữa trò và trò dẫn đến học sinh bị hạn chế các kỹ năng đọc hiểu cần thiết. – Chẳng hạn khi dạy chương trình cũ khi đọc hiểu văn bản truyện, đôi khi chúng ta chỉ tìm hiểu khái quát đặc sắc về nội dung và nghệ thuật của tác phẩm. Vì vậy, những lớp trầm tích ý nghĩa và nhiều phương diện nghệ thuật của tác phẩm chưa được phát lộ. Khi hướng dẫn HS ôn luyện tác phẩm tự sự mới chủ yếu đi sâu tìm hiểu nhân vật, tình huống truyện, kết cấu, giọng điệu trần thuật, ngôn ngữ xuyên suốt toàn bộ tác phẩm mà chưa chú ý đến đoạn văn nhỏ, lát cắt của tác phẩm Qua thực tế giảng dạỵ và chấm bài , chúng tôi thấy một nhược điểm phổ biến là việc đọc của học sinh thường khá hời hợt, rơi vào cảm nhận chung chung, xa rời văn bản và dễ bỏ qua những chi tiết đặc sắc của tác phẩm. Người đọc chưa thực sự có sự hòa mình trong tác phẩm , chưa rung động với tác phẩm, nên chưa thể thưởng thức hết cái hay cái đẹp, tài nghệ của người cầm bút. Đây là nguyên nhân dẫn đến các bài văn của học sinh khi viết về tác phẩm hoặc đoạn trích văn xuôi khá mờ nhạt, không có điểm nhấn. Đặc biệt trong
- 5 xu hướng đổi mới kiểm tra đánh giá hiện nay, đề thi về văn bnar truyện thường là một văn bản mới, học sinh chưa được học, chưa được đọc trước , nếu không dạy cho học sinh cách đọc, học sinh không thể tạo lập một văn bản đáp ứng đủ các yêu cầu cơ bản của đề kiểm tra. – Giáo viên chưa chú ý nhiều đến kĩ năng đọc theo đặc trưng thể loại chủ yếu phần đọc, tóm tắt văn bản giao cho học sinh thực hiện tại nhà, một số học sinh lười đọc sao chép thụ động một số văn bnar tom stawts trên các trang mạng sau đó trình bày lại như một con vẹt biết nói. – Với việc giảng dạy đọc hiểu một cách chung chung về văn bản văn xuôi dẫn đến hiện tượng học sinh học máy móc rồi áp dụng vào bài viết, hoặc học thuộc lòng rồi viết lại dẫn đến có nhiều bài thi na ná giống nhau. Điều đó đã hạn chế rất nhiều khả năng chủ động, tích cực trong việc phát huy năng lực của học sinh. + Đối với học sinh Trong những năm học trước sau khi hoàn thành việc giảng dạy và ôn tập các dạng bài, có bài đọc hiểu khi chưa áp dụng sáng kiến, tôi nhận thấy rằng đa số các học sinh thường bỏ qua câu có vận dụng liên hệ mở rộng thực tế. + Nguyên nhân . Học sinh ít hứng thú và không giành nhiều sự quan tâm tới môn học đặc biệt là với những tác phẩm văn xuôi( Truyện) thường có dung lượng dài hơn so với văn bản thơ. Việc đọc hiểu tác phẩm văn xuôi( truyện) hời hợt chưa phản ánh đúng bản chất của tiếp nhận văn học: Một hoạt động tích cực của cảm giác, tâm trí người đọc nhằm biến văn bản thành thế giới nghệ thuật trong tâm trí mình. . Học sinh không nắm chắc chủ đề, đề tài nội dung ý nghĩa của truyện. . Học sinh không biết làm thế nào để có thể tìm được ý trả lời đúng, sát ý nghĩa nhất. b) Nội dung sáng kiến *) Các biện pháp đã tiến hành để giải quyết vấn đề theo bố cục bài. Ví dụ: BÀI 6 Văn bản 1: MẮT SÓI (Đa-ni-en Pen - Nắc) A. MỤC TIÊU 1. Mức độ yêu cầu cần đạt - Học sinh nhận biết được các chi tiết tiêu biểu, đề tài, câu chuyện, nhân vật trong tính chỉnh thể của tác phẩm (đề tài về thế giới trẻ em, loài vật, quan hệ giữa con người và thế giới tự nhiên, quan hệ của Phi Châu và Sói Lam - hai nhân vật chính của tác phẩm, một vài chi tiết tiêu biểu trong đoạn trích Mắt sói ) - Học sinh nhận biết và phân tích được cốt truyện đa tuyến trong văn bản Mắt sói Học sinh nêu được những thay đổi trong suy nghĩ, tình cảm hoặc cách sống của bản thân sau khi đọc Mắt sói 2. Năng lực a. Năng lực chung - Giải quyết vấn đề, năng lực tự quản bản thân, năng lực giao tiếp, năng lực hợp tác. b. Năng lực riêng
- 6 - Thu thập thông tin liên quan đến văn bản Mắt sói - Trình bày suy nghĩ, cảm nhận của cá nhân về văn bản Mắt sói - Hợp tác khi trao đổi, thảo luận về thành tựu nội dung, nghệ thuật, ý nghĩa của văn bản - Năng lực phân tích, so sánh đặc điểm nghệ thuật của văn bản với các văn bản khác có cùng chủ đề 3. Phẩm chất - Trân trọng, tin yêu vẻ đẹp của con người, thiên nhiên, biết sống có trách nhiệm B. NỘI DUNG Hoạt động : Tìm hiểu khái quát. Câu hỏi Nhóm 1: - Hãy đọc SGK và giới thiệu những hiểu biết của em về nhà văn Đa-ni-en Pen- nắc? - Kể tên những tác phẩm chính của ông ? Nhóm 2: - Xác định xuất sứ, thể loại, đề tài, nhân vật chính, loại cốt truyện của văn bản. - Văn bản có thể chia thành mấy phần? Nội dung chính từng phần. - Thế nào là cốt truyện đa tuyến? Dự kiến sản phẩm I. Tác giả - Tác phẩm 1. Tác giả - Đa-ni-en Pen-nắc sinh năm 1944, là nhà văn lớn người Pháp - Ông thành công với nhiều thể loại: Tiểu luận, tự truyện, tiểu thuyết - Một số tác phẩm nổi tiếng viết về thiếu nhi của ông đã được dịch sang tiếng Việt: Cún bụi đời (1982), Mắt sói (1984), Nỗi buồn thời cắp sách (2007). 2. Tác phẩm - Thể loại: Truyện ngắn - Mắt sói là một trong những tác phẩm kinh điển của văn học thiếu nhi Pháp và đã được dịch ra nhiều thứ tiếng trên thế giới 2. Cốt truyện đa tuyến - Cốt truyện đa tuyến là kiểu cốt truyện tồn tại đồng thời ít nhất hai mạch sự kiện. - Trong cốt truyện đa tuyến, hệ thống sự kiện thường phức tạp, chồng chéo, tái hiện nhiều bình diện của đời sống gắn với số phận các nhân vật chính của tác phẩm. Hoạt động: Khám phá nội dung truyện
- 7 Câu hỏi + Nhóm 1, 2 Đọc tác phẩm mắt sói, chỉ ra dặc điểm cốt truyện đa tuyến, mạch truyện Mắt sói + Nhóm 3, 4: Nhận xét về tình huống truyện, tóm tắn nội dung chính của truyện? Dự kiến sản phẩm I. Cốt truyện, mạch truyện và tình huống truyện a. Cốt truyện và mạch truyện + Chương 1: Mạch truyện về nhân vật Sói Lam và Phi Châu; thời gian: hiện tại; không gian: vườn bách thú; nội dung: cuộc gặp gỡ kì lạ giữa cậu bé Phi Châu và Sói Lam, con sói và cậu bé nhìn nhau bằng một mắt trong vườn thú + Chương 2: Mạch truyện về nhân vật Sói Lam, thời gian: quá khứ, không gian: Bắc Cực xa xôi, lạnh giá, hùng vĩ; nội dung câu chuyện: những cuộc trốn chạy các toán đi săn của gia đình nhà sói + Chương 3: Mạch kể chuyện về nhân vật Phi Châu, thời gian: quá khứ; không gian: ba miền châu Phi rộng lớn; nội dung câu chuyện: hành trình mưu sinh nhọc nhằn trên khắp châu Phi của cậu bé Phi Châu => Phi Châu và Sói Lam xích lại và đồng cảm với nhau vì giữa hai nhân vật có nhiều điểm tương đồng. Cả hai đều sinh ra trong hoàn cảnh khốc liệt, đều bị bán và tạm thời sống sót từ Bắc Cực và châu Phi xa xôi – những nơi đang bị con người tàn phá. b. Tình huống truyện - Tình huống truyện xoay quanh cuộc gặp gỡ kì lạ giữa cậu bé tên là Phi Châu và Sói Lam. Sói Lam chỉ có một mắt. Con mắt kia của nó đã bị mất trong một cuộc giao tranh với con người. Cậu bé Phi Châu nhìn sâu vào mắt Sói Lam và câu chuyện của gia đình nhà sói đã hiện lên qua con mắt ấy. Câu chuyện được kể ở ngôi thứ ba nhưng có lúc được chuyển sang ngôi thứ nhất qua lời của nhân vật Sói Lam. Sói Lam kể về những cuộc trốn chạy của gia đình nhà sói nơi Bắc Cực xa xôi, lạnh giá. Tiếp đó, Sói Lam nhìn sâu vào mắt Phi Châu và câu chuyện của cậu bé đã hiện ra với hành trình mưu sinh nhọc nhằn. Sau một vài sự cố gia đình Phi Châu đã chuyển đến thành phố và cha cậu được làm việc trong sở thú. Ở vườn thú, Phi Châu đã được gặp lại những người bạn thân thiết. * Nội dung chính: "Mắt sói" là một tiểu thuyết ngắn với bốn chương. Chương 1 mô tả cuộc gặp gỡ đầy kỳ lạ giữa Phi Châu, cậu bé, và Sói Lam trong khu vườn bách thủ. Dưới ánh mắt duy nhất, con sói và cậu bé liếc nhau trong khu vườn yên tĩnh và hoang dại. Chương 2 là câu chuyện về Sói Lam và lịch sử gia đình sói được hiện lên qua ánh mắt của nó khi Phi Châu nhìn sâu vào đó. Câu chuyện được kể từ ngôi thứ ba, nhưng đôi khi chuyển sang ngôi thứ nhất qua lời kể của Sói Lam. Sói Lam kể về những cuộc trốn chạy khỏi cuộc săn đuổi của gia đình sói tại vùng Bắc Cực lạnh giá và xa xôi. Chương 3 xoay quanh Phi Châu và cuộc hành trình gian khổ trên châu Phi khi Sói Lam nhìn sâu vào mắt cậu bé và câu chuyện của nó hiện ra. Sau một vụ tai nạn xe buýt, Phi Châu được mẹ Bia và cha Bia cứu sống, chăm sóc và sống cùng họ ở Châu Phi Xanh. Cuối cùng, chương 4 kể về việc gia đình Phi Châu chuyển đến thành phố và gặp lại những người bạn tại sở thú. II. Tìm hiểu chi tiết + Nhóm 1, 2: Tìm hiểu về hình ảnh mắt sói ở phần (1) + Nhóm 3, 4: Tìm hiểu về sự việc Sói Lam cứu Ánh Vàng ở phần (2)
- 8 + Nhóm 5,6: Tìm hiểu về hình ảnh mắt người ở phần (3) + Nhóm 7, 8: Tìm hiểu về kí ức Phi Châu và những người bạn ở phần (4 1. Cuộc gặp gỡ kì lạ giữa cậu bé Phi Châu và Sói Lam - Các chi tiết miêu tả mắt sói: Con mắt màu vàng, tròn xoe, chính giữa có một con ngươi màu đen, con mắt không chớp bao giờ, to, tròn, hệt như một ngọn đèn trong đêm, như một tuần trăng úa trên bầu trời trống trải, xuất hiện những điểm màu khác nhau, con ngươi cháy lên như một đám lửa thực sự - Những hình ảnh so sánh, liên tưởng với hình ảnh mắt sói: hệt như ngọn đèn trong đêm, như một tuần trăng úa trên bầu trời trống trải - Những chi tiết này cho thấy cậu bé cảm nhận được trong mắt sói chất chứa nỗi buồn thẳm sâu, sự u uất, cô đơn, trống trải. Điểm nhấn đặc biệt trong đôi mắt sói là con ngươi “có sự sống”. Trong con ngươi của sói là một bức tranh đa sắc màu: “màu lông của năm con sói con hệt quầng hung đỏ của cầu vồng’’ - Câu chuyện hiện lên trong mắt sói là hồi ức về gia đình nhà sói. Nhìn vào trong con mắt hiện lên một mái ấm gia đình từng hạnh phúc của sói Lam và tình yêu thương sự gan dạ của sói Lam đã xả thân cứu người em của mình là Ánh Vàng. 2. Những cuộc trốn chạy các toán đi săn của gia đình nhà sói + Sói Lam cứu sói Ánh Vàng: - Ánh Vàng bị nhốt trong lưới, bộ lông lấp lánh những ánh chớp vàng trong màn đêm - Sói Lam nghĩ ra kế hoạch cứu Ánh Vàng: Phải nhảy qua ngọn lửa. Một việc chẳng hay ho gì với một con sói. Nhưng chỉ có cách làm vật và phải thật nhanh. Không còn thời gian mà sợ hãi. “Tấn công bất ngờ, đó là cơ may duy nhất của ta!” - Nhanh chóng thực hiện kế hoạch: Sói Lam tung người bay trên làn không khí bỏng rát, nó dùng răng cắn đứt sợi dây, hét: “Chạy đi, Ánh Vàng!”; Đầu Sói Lam như nổ tung, Sói Lam ngã xuống, ngã xuống, cứ xoay tròn và rơi mãi trong màn đêm đầy tia lửa - Sói Lam là một con sói dũng cảm và rất yêu thương gia đình, yêu thương đứa em bé bỏng của mình. Dù phải đối mặt với hiểm nguy trước mắt cũng không hề nao núng, vui mừng vì thấy em có thể chạy thoát. + Sói Lam nhìn vào mắt Phi Châu Sói Lam nhìn vào mắt Phi Châu và nhận ra: như một ánh sáng vụt tắt, như một đường hầm bị sập dưới lòng đất - một đường hầm giống một cái hang cáo mà Sói Lam từng chui vào, càng vào sâu càng mờ mịt, tối om, không còn giọt nắng nào. - Trong mắt cậu bé, kí ức về tình bạn với lạc đà Hàng Xén, với Báo. III. Tổng kết Câu hỏi - Hãy rút ra nét chính về giá trị nghệ thuật và nội dung văn bản. - Từ đó cho biết để đọc hiểu một tác phẩm có cốt truyện đa tuyến, chúng ta cần lưu ý điều gì? Dự kiến sản phẩm 1. Nghệ thuật: + Sử dụng đặc sắc nghệ thuật miêu tả nhân vật
- 9 + Xây dựng cốt truyện thú vị, cuốn hút, có tính liên kết giữa các chương trong tác phẩm 2. Nội dung: + Cuộc đời của Sói Lam và Phi Châu bị đối xử tàn nhẫn bởi con người và tìm thấy tình yêu và sự đoàn kết trong nhau cũng như với các loài động vật khác + Câu chuyện xoay quanh mối quan hệ giữa Sói Lam và Phi Châu + Cảnh báo về tình trạng tàn ác, phân biệt đối xử của con người đối với các loài động vật IV. LUYỆN TẬP. 1. Đề đọc hiểu nội dung truyện sgk PHIẾU HỌC TẬP SỐ 1 Một con mắt màu vàng, tròn xoe, chính giữa có một con ngươi màu đen. Một con mắt không chớp bao giờ. Hệt như cậu bé đang nhìn một ngọn đèn trong đêm; cậu chẳng thấy gì ngoài con mắt này: cây cối, vườn thú, khu chuồng, mọi thứ đã biến mất. Chỉ còn lại một điều duy nhất: mắt soi. Con mắt càng lúc càng như to hơn, tròn hơn, như một tuần trăng úa trên bầu trời trống trải, và chính giữa, một con ngươi như càng đen hơn, và trong quầng vàng nâu quanh con ngươi, người ta thấy xuất hiện những điểm màu khác nhau, chỗ này là màu lam (xanh như nước đóng băng dưới bầu trời), chỗ kia là một tia ánh vàng, lấp lánh như trang kim. Nhưng điểm quan trọng nhất chính là con ngươi. Con ngươi màu đen! - Mi đã muốn nhìn ta thì nhìn đi! Dường nhưu con ngươi muốn nói. Nó lóe lên một tia sáng khủng khiếp. Hệt một ngọn lửa. “Đúng rồi, cậu bé nghĩ: ngọn hắc hỏa!” Và cậu trả lời - Được rồi, Hắc Hỏa, ta nhìn đây. Ta không sợ đâu. Con ngươi như to hơn, choán hết cả con mắt, cháy lên như một đám lửa thực sự, cậu bé không ngoảnh mặt đi. Và khi mọi thứ trở nên tối sầm, đen thẫm, cậu phát hiện ra một điều mà trước cậu, chưa hề có ai nhìn thấy trong mắt sói: con ngươi có sự sống. Con ngươi màu đen chính là một con sói cái đang nằm cuộn tròn giữa bầy con nhỏ của mình, nó vừa gầm gừ vừa nhìn cậu bé. [ ] Và chẳng thèm để ý tới cậu bé nữa, sói cái lướt nhìn một lượt bảy đứa con nhỏ của mình đang nằm vây quanh. Chúng làm thành một quầng màu hung đỏ. “Sắc cầu vồng, cậu bé nghĩ, quanh con ngươi có sắc cầu vồng”. Phải rồi, màu lông của năm sói con hệt quầng hung đỏ của cầu vồng. Bộ lông của con thứ sáu màu xanh lam, xanh như màu nước đóng băng dưới nền trời trong veo. Sói Lam! Con thứ bảy (một con sái cái màu vàng) trông như tia vàng. Mỗi khi nhìn vào là phải nheo mắt. Mấy cậu sói anh gọi nó là Ánh Vàng. [ ] (2) Và hẳn vì buồn nên Ánh Vàng muốn được thấy những điều mới mẻ. Cô muốn nhìn thấy con người. Nhìn thật gần cơ. Và chuyện xảy ra vào một đêm. Vẫn toán đi săn mọi khi lùng sục theo gia đình sói. Họ dựng trại ở một vùng trũng đầy cỏ, từ hang sói tới đó mất chừng ba giờ đồng hồ. Ánh Vàng ngửi thấy mùi khóc bốc lên từ đám lửa họ đốt. Cô còn nghe thấy cả tiếng củi khô kêu lách tách. “Ta phải tới đó xem sao”, cô tự nhủ.
- 10 “Ta sẽ trở về trước khi trời sáng” “Cuối cùng ta cũng sẽ phải được biết họ giống ai chứ” “Ta sẽ có chuyện kể cho mọi người, và cả nhà sẽ đỡ buồn hơn” “Và hơn hết là vì họ đang săn lùng ta ” Cô nghĩ như vậy là đủ lí do để trốn khỏi hang. Và cô đi tới đó. Khi Sói Lam tỉnh giấc vào đêm hôm đó (như có linh cảm), cô sói em đã đi cách đó một giờ đồng hồ. Nó đoán ngay chuyện gì đã xảy ra. Cô ấy đã lừa Sói Xám Em Họ gác đêm hôm đó (điều này cô ấy cũng làm được), và cô đã tới chỗ con người. “Ta sẽ đuổi kịp em!” Sói anh đã không làm được điều này. (Theo Mắt sói - Đa-ni-en Pen-nắc) Câu 1. Đoạn trích trên được kể theo ngôi thứ mấy? Kể về sự việc gì? Câu 2. Em hiểu cốt truyện đa tuyến trong truyện trên như thế nào? Câu 3. Sói Lam đã cứu Ánh Vàng như thế nào. Qua hành động đó, em hãy nhận xét về tính cách nhân vật Sói Lam. Câu 4. Nêu cảm nhận của em về nhân vật Phi Châu. Chỉ ra những chi tiết giúp em có cảm nhận đó Câu 5. Hình ảnh mắt sói, mắt người có ý nghĩa như thế nào trong nghệ thuật kể chuyện của nhà văn? GỢI Ý TRẢ LỜI Câu 1. Câu chuyện được kể ở ngôi thứ ba nhưng có lúc được chuyển sang ngôi thứ nhất qua lời của nhân vật Sói Lam. Sói Lam kể về những cuộc trốn chạy của gia đình nhà sói nơi Bắc Cực xa xôi, lạnh giá. Câu 2. Cốt truyện đa tuyến của tác phẩm Mắt sói: - Truyện được kể đa tuyến nhân vật, không cố định người kể chuyện. - Điểm nhìn đa tuyến từ quá khứ - hiện tại - tương lai. - Nhiều cốt truyện đan xen với nhau. Trong đó, cốt truyện chung là cuộc gặp gỡ của Sói Lam và Phi Châu. Các cốt truyện riêng là câu chuyện cuộc đời của Phi Châu và Sói Lam thông qua cái nhìn và sự thấu hiểu của đối phương. Câu 3. Ánh Vàng bị nhốt trong lưới, bộ lông lấp lánh những ánh chớp vàng trong màn đêm; Sói Lam tung người bay trên làn không khí bỏng rát, nó dùng răng cắn đứt sợi dây, hét: “Chạy đi, Ánh Vàng!”; Đầu Sói Lam như nổ tung, Sói Lam ngã xuống, ngã xuống, cứ xoay tròn và rơi mãi trong màn đêm đầy tia lửa => Qua hành động trên, có thể thấy Sói Lam là một con sói dũng cảm và rất yêu gia đình, yêu thương đứa em gái bé bỏng. Khi biết em bị nạn, nó đã không chút do dự lao đến cứu em, không màng đến mạng sống và sự an nguy của bản thân - một con sói không bao giờ đùa, “nghiêm túc”, “uyên bác”, tính cách “vô cùng là sói”. Câu 4. Phi Châu là một cậu bé có tâm hồn trong sáng, sâu sắc, tinh tế, có tấm lòng nhân hậu, trân trọng tình bạn, yêu thương loài vật, tôn trọng thiên nhiên. Điều đó được thể hiện qua chi tiết Phi Châu “mất hàng giờ” để tìm lạc đà Hàng Xén - người bạn đầu tiên của cậu bé. Hay chi tiết Phi Châu suy nghĩ về các loài động vật trong thế giới tự nhiên bằng sự đồng cảm, thấu hiểu, tôn trọng: “Cậu là một người chăn cừu tốt, chỉ có vậy thôi. Cậu đã hiểu ra một điều rất đơn giản: Đàn cừu và dê không có kẻ thù. Nếu thi thoảng có sư tử hay báo ăn thịt một con dê cái thì chỉ vì nó đói”. Hoặc chi tiết
- 11 Phi Châu kết bạn với Báo bằng tâm hồn tinh tế, tĩnh lặng, sự thấu cảm sâu sắc. Câu 5. Mắt sói được đánh giá là “Một cuộc gặp gỡ kì lạ, được kể lại một cách xuất sắc” (Astrapi). Trong tác phẩm, câu chuyện được kể theo ngôi thứ ba nhưng có lúc được chuyển sang ngôi thứ nhất qua lời của nhân vật. Ở đoạn trích, câu chuyện được kể bằng lời ngôi thứ ba nhưng chủ yếu theo điểm nhìn bên trong (kể qua cảm nhận của nhân vật). Nhà văn Pennac đã xây dựng câu chuyện với cốt truyện đa tuyến mới lạ và đầy tính sáng tạo, truyện lồng truyện. Đan xen trong cốt truyện chính kể về cuộc gặp gỡ của Phi Châu và Sói Lam là cốt truyện riêng về cuộc đời của từng nhân vật. Lời kể của nhiều nhân vật tạo nên những góc nhìn đa chiều, gợi sự tò mò và hứng thú nơi người đọc. Ngôn ngữ kể chuyện trong sáng, phù hợp với lứa tuổi của trẻ thơ. *) Vận dụng kiến thức đọc hiểu làm bài tập ngữ liệu ngoài sách giáo khoa 2. Đề đọc hiều ngoài sgk PHIẾU HỌC TẬP SỐ 2 I. ĐỌC HIỂU (6.0 điểm). Đọc văn bản sau và thực hiện các yêu cầu: BỐ TÔI Tôi đi học dưới đồng bằng. Còn bố tôi, từ nơi núi đồi hiểm trở, ông luôn dõi theo tôi. Bao giờ cũng vậy, ông mặc chiếc áo kẻ ô phẳng phiu nhất, xuống núi vào cuối mỗi tuần. Ông rẽ vào bưu điện để nhận những lá thư tôi gửi. Lặng lẽ, ông vụng về mở nó ra. Ông xem từng con chữ, lấy tay chạm vào nó, rồi ép vào khuôn mặt đầy râu của ông. Rồi lặng lẽ như lúc mở ra, ông xếp nó lại, nhét vào bao thư. Ông ngồi trầm ngâm một lúc, khẽ mỉm cười rồi đi về núi. Về đến nhà, ông nói với mẹ tôi: “Bà ơi, con mình vừa gửi thư về”. Ông trao thư cho bà. Bà lại cẩn thận mở nó ra, khen: “Con mình viết chữ đẹp quá! Những chữ tròn, thật tròn, những cái móc thật bén. Chỉ tiếc rằng không biết nó viết gì. Sao ông không nhờ ai đó ở bưu điện đọc giùm?”. Ông nói:“Nó là con tôi, nó viết gì tôi đều biết cả”. Rồi ông lấy lại thư, xếp vào trong tủ cùng với những lá thư trước, những lá thư được bóc ra nhìn ngắm, chạm mặt rồi cất vào, không thiếu một lá, ngay cả những lá đầu tiên nét chữ còn non nớt[ ] Hôm nay là ngày đầu tiên tôi bước chân vào trường đại học. Một ngày khai trường đầu tiên không có bố. Bố tôi đã mất. Nhưng tôi biết bố sẽ đi cùng tôi trên những con đường mà tôi sẽ đi, suốt cả hành trình cuộc đời. (Theo Bố tôi - Nguyễn Ngọc Thuần,NXB Hội nhà văn, 1992) Câu 1.Văn bản trên được viết theo thể loại nào? A. Tùy bút B. Truyện ngắn C. Tiểu thuyết D. Bút kí Câu 2. Ai là người kể chuyện trong câu chuyện trên? A. Người kể chuyện giấu mặt B. Nhân vật người con C. Nhân vật người bố D. Nhân vật người mẹ Câu 3. Đề tài của câu chuyện là gì? A. Tình cảm gia đình C. Sự trưởng thành của con người B. Những lá thư trong cuộc sống D. Sự xa cách trong gia đình Câu 4. Xác định thành phần tình thái trong câu sau: “Rồi ông lấy lại thư, xếp vào trong tủ cùng với những lá thư trước, những lá thư được bóc ra nhìn ngắm, chạm mặt rồi cất vào, không thiếu một lá, ngay cả những lá đầu tiên nét chữ còn non nớt ”